Tìm hiểu các dòng đất thuộc nhóm Hồng Nê (Phần 2)
Đặc điểm theo từng loại (tt)
Hồng Nê Hoàng Long Sơn
Sản sinh ở phần dưới của tầng đá hoàng thạch khu mỏ Bảo Sơn phía Đông. Khoáng chất có màu vàng xanh nhạt dạng khối đặc, hơi cứng, chứa một lượng nhỏ mảnh mica trắng rất nhỏ. Bề mặt khoáng có vết gỉ và mảng gỉ sắt.

- Đặc tính đất: Đất có độ dẻo trung bình, khi tạo hình khá giòn, trong quá trình chế tác có lẫn tính cát.
- Nhiệt độ nung: Nhiệt độ nung khá rộng, khi nung ở nhiệt độ cao có thể xuất hiện hiện tượng “khí đen” trên bề mặt thân đất. Nhiệt độ nung thông thường khoảng 1140 – 1170°C.
- Co ngót: ~5,5%.
- Sau nung: Đất có màu đỏ pha vàng nhẹ, thân đất có bề mặt dạng vân da lê mờ, kết cấu cát mịn, ấm áp, màu sắc phong phú và đa dạng.

Hồng Nê Hoàng Long Sơn non
Sản sinh ở lớp phía dưới khoáng chất trong hình, trữ lượng tương đối ít. Khoáng chất có màu vàng và vàng xanh nhạt dạng khối đặc, dễ vỡ, không quá cứng, bề mặt có vết gỉ sắt.

- Đặc tính đất: Đất có độ dẻo tốt, khi tạo hình hơi giòn, trong quá trình chế tác có lẫn tính cát.
- Nhiệt độ nung: 1130 – 1160°C.
- Co ngót: ~6%.
- Sau nung: Đất có màu đỏ pha vàng nhẹ, thân đất có bề mặt dạng vân da lê mịn, bề mặt bóng mượt, màu sắc phong phú và đa dạng.

Hồng Nê Hoàng Long Sơn lão
Sản sinh ở lớp xen kẹp phía trên khoáng chất trong hình. Khoáng chất có màu vàng xanh dạng khối đặc, cứng như đá, chứa khá nhiều mảnh mica trắng, bề mặt có vảy gỉ sắt.

- Đặc tính đất: Đất luyện có độ dẻo kém, khi tạo hình dễ vụn, dễ gãy, trong quá trình chế tác tính cát khá cao.
- Nhiệt độ nung: 1150 – 1180°C.
- Co ngót: ~4,5%.
- Sau nung: Đất có màu đỏ hơi tối, kết cấu hạt cát mịn, thân đất khá khô ráp. Bề mặt còn nhiều mảnh mica trắng và tạp chất tương đối nhiều, hiệu quả màu sắc không tốt. Khi nung ở nhiệt độ cao hơn, màu chuyển sang đỏ thẫm.

Giáng Ba Hồng Nê mỏ Bảo Sơn
Khai thác trong quá trình xây dựng quảng trường nghỉ dưỡng Hoàng Long Sơn. Khoáng chất có màu đỏ sẫm dạng khối đặc, dễ vỡ, không quá cứng, trên bề mặt có các đốm và vệt màu xanh lục, cùng lớp sáp trong suốt.


- Đặc tính đất: Đất luyện có độ dẻo tốt, khi tạo hình hơi giòn, trong quá trình chế tác có lẫn tính cát.
- Nhiệt độ nung: 1140 – 1170°C.
- Co ngót: ~6%.
- Sau nung: Đất có màu đỏ pha vàng nhẹ, khi nung ở nhiệt độ cao hơn chuyển sang đỏ thẫm. Thân đất mịn và bóng, bề mặt có những hạt màu vàng dạng vân da lê mờ ẩn hiện, màu sắc tinh tế và phong phú.

Giáng Ba Hồng Nê mỏ Bảo Sơn
Khoáng chất sản sinh trong tầng khoáng nằm dưới khu công nghiệp Bảo Sơn. Khoáng chất có màu đỏ nhạt hơi tối, dạng khối đặc, dễ vỡ, không cứng. Trong khoáng có các đốm và vệt màu vàng xanh nhạt, bề mặt có vết gỉ sắt.

- Đặc tính đất: Đất khá mịn, có độ dẻo tốt, khi tạo hình có lẫn tính cát.
- Nhiệt độ nung: 1140 – 1170°C.
- Co ngót: ~6,5%.
- Sau nung: Đất có tông màu đỏ cam, thân đất có bề mặt dạng vân da lê thô, kết cấu thô nhưng không ráp, màu sắc phong phú. Khi nung ở nhiệt độ cao hơn, màu chuyển sang đỏ thẫm.

Giáng Ba Hồng Nê mỏ Bảo Sơn
Khai thác trong quá trình xây dựng đường Gốm Đô, đoạn dốc núi Hoàng Long và được đặt tên theo công trình này. Khoáng chất có kết cấu đồng đều, mịn, màu đỏ thẫm dạng khối đặc, dễ vỡ, không cứng. Trên bề mặt có một lượng nhỏ các đốm và vệt màu xanh lục, cùng lớp sáp trong suốt.

- Đặc tính đất: Đất có độ dẻo tốt, khi tạo hình hơi giòn, trong quá trình chế tác có lẫn tính cát.
- Nhiệt độ nung: 1140 – 1170°C.
- Co ngót: ~6%.
- Sau nung: Đất có màu đỏ thẫm nhẹ pha vàng, thân đất mịn, bóng dầu. Bề mặt phủ nhiều hạt vàng dạng vân da lê, màu sắc rất tinh tế và phong phú. Khi nung ở nhiệt độ cao hơn, màu chuyển sang đỏ thẫm.

Thạch Hoàng Nê Tiểu Môi Diêu Nộn Nê khoáng thôn Xuyên Bộ (Chu Sa Nê)
Nguồn gốc và đặc điểm khoáng chất
Thạch Hoàng Nê thuộc loại sa thạch bột sét mịn. Thường phân bố trong các lớp kẹp của tầng đất non, đôi khi xuất hiện ở phần đáy tầng đất non, trữ lượng cực kỳ ít. Khoáng chất có màu đỏ vàng nhạt, kết cấu dày đặc, khá cứng, tính sét. Bên trong chứa một lượng nhỏ vụn mica trắng mịn. Khi gặp nước, chúng có thể tự rã thành các mảnh nhỏ nhưng không tan.
Sau khi nung, màu khoáng giống chu sa nên còn gọi là “Chu Sa Nê”. Qua nhiệt độ cao, màu chuyển sang đỏ gạch.

Tính chất và khả năng chế tác
Đất luyện có độ dẻo khá tốt. Khi tạo hình hơi tơi, trong chế tác mang tính cát. Khoảng nhiệt độ nung khá rộng, ít xảy ra nổi bọt, phồng rộp hay biến dạng. Chúng phù hợp cho sản phẩm cỡ lớn. Nhiệt độ nung thường nằm trong khoảng 1120 – 1200°C, tỷ lệ co rút khoảng 6,5%.
Sau khi nung, bề mặt trông giống trạng thái “ôn thấp” chưa đạt nhiệt độ cực hạn. Chất bề mặt mịn như bột. Khi gõ, âm thanh cao hơn so với tử nê hay giáp nê ở cùng mức độ kết khối. Nếu tiếp tục gia nhiệt, màu sắc và độ kết khối không thay đổi rõ rệt như tử nê hay giáp nê.

Thân gốm sau nung hơi xốp. Khi rót nước, màu gốm có thể đổi theo mực nước. Hiện tượng này giống ghi chép trong Dương Hòa Sa Mai Đồ Khảo về sự đổi màu của chu sa.
Sau khi nung, bề mặt trông giống trạng thái “ôn thấp” chưa đạt nhiệt độ cực hạn, có cảm giác bột mịn. Khi gõ, âm thanh cao hơn so với các loại tử nê, giáp nê ở cùng mức độ kết khối. Khi tiếp tục gia nhiệt, màu sắc và độ kết khối sau nung không thay đổi rõ rệt như tử nê hay giáp nê. Thân gốm hơi xốp, khi rót nước, màu gốm có thể thay đổi theo mực nước. Điều này rất giống ghi chép trong Dương Hòa Sa Mai Đồ Khảo về hiện tượng đổi màu của chu sa.
Ứng dụng và phối trộn nguyên liệu
Nếu dùng thuần Thạch Hoàng Nê để chế tác, sau một thời gian sử dụng, bề mặt sẽ xỉn màu. Hiện tượng này trùng khớp với một số tác phẩm cổ xưa. Tuy nhiên, khi phối trộn với khoáng khác, đặc biệt là Chu Nê lớp dưới, chất đất sẽ được cải thiện. Màu sắc và kết cấu thân gốm sau nung nhờ đó đạt hiệu quả ưu việt hơn. Việc phối trộn này từng thấy trong nhiều tác phẩm cổ, phản ánh thực tế khai thác và sử dụng nguyên liệu thời bấy giờ.
Xem thêm: Giáng Ba Nê (Giáng Pha Nê)
TSTN tổng hợp và dịch