/ / / Đơn Tùng Phượng Hoàng: Hương kỳ diệu kiêu hãnh, danh vang bốn bể!

Đơn Tùng Phượng Hoàng: Hương kỳ diệu kiêu hãnh, danh vang bốn bể!

Người Trung Hoa có lẽ là dân tộc tinh tế bậc nhất thế giới về vị giác. Từng đầu lưỡi, từng tế bào vị giác của họ đều theo đuổi đến tận cùng khoái cảm của hương vị. Không cần nói đến những nền ẩm thực đa dạng ra đời chỉ để chiều chuộng đầu lưỡi. Riêng về trà, họ khơi dậy “cơn lốc của vị tươi, bão tố của hương thơm”. Chỉ khi đạt đến cảnh giới “lưỡi sinh tân dịch, đầu lưỡi rỏ nước, gốc lưỡi ngân suối”, họ mới chịu dừng.

Trà xanh cả đời đi theo con đường của vị “tươi”. Những sợi trà xanh thẳm vươn mình trong nước sôi, như mang theo hơi thở của mùa xuân Giang Nam. Chúng khơi gợi cảm giác vạn vật hồi sinh, tràn đầy sức sống.

Trà Đơn Tùng Phượng Hoàng mang sự quyến rũ trong tầng hương

Trà Ô Long lại sinh ra để theo đuổi “hương”. Trong đó, ba loại điển hình là Nham trà Vũ Di, Thiết Quan Âm An Khê, và Phượng Hoàng Đơn Tùng. Mỗi loại đều mang hương đặc trưng riêng, song lại đi những con đường khác nhau.

Nham trà phải có “vận đá” (vị khoáng hậu đặc trưng), Thiết Quan Âm chuộng hương thanh khiết như lan, còn Phượng Hoàng Đơn Tùng, hương của nó luôn biến hóa. Từ một đỉnh cao này vươn đến đỉnh cao khác, từ một tầng hương chuyển sang tầng hương kế tiếp. Trước khi quá trình lên men và sao định hình kết thúc, không ai biết được nó sẽ mê hoặc lòng người bằng hương vị nào.

Câu chuyện định mệnh giữa núi Phượng Hoàng và nhà Tống

Núi Phượng Hoàng trồng trà đã từ rất lâu đời, sớm nhất có thể truy về thời Tùy triều. Nhưng danh tiếng “Phượng Hoàng trà” thật sự bắt đầu từ cuối Tống đầu Nguyên. Tương truyền, người đầu tiên phát hiện ra Phượng Hoàng Đơn Tùng chính là Triệu Bính – vị hoàng đế cuối cùng của nhà Tống.

Từ Bắc Tống đến Nam Tống, triều đại này yếu dần trong chế độ văn quan, các vua họ Triệu liên tục rút chạy về phương Nam. Năm 1279, lịch sử Nam Tống khép lại. Lúc ấy, vị tiểu hoàng đế 8 tuổi chạy trốn đến tận cực Nam Trung Hoa – vùng Triều Châu. Khi vượt qua núi Phượng Hoàng, ông khát khô cổ, kiệt sức. Binh lính hái lá từ một loại cây có hình như mỏ chim, nấu lên thành trà. Từ đó, loại trà này được gọi là “Tống Chủng” – giống trà của nhà Tống.

Xem thêm: Điều gì khiến Đơn Tùng Phượng Hoàng đặc biệt?

Huyền thoại tạo nên loại trà đặc biệt núi Phượng Hoàng

“Tống Chủng” – Biểu tượng được tôn thờ

Uống Phượng Hoàng Đơn Tùng mà được thưởng thức Tống Chủng thì thật không uổng một đời thưởng trà – vị thơm nồng ấy chính là vị của thời gian. Ai từng đến núi Phượng Hoàng đều muốn chiêm bái cây mẹ “Tống Chủng” đã sống hơn 700 năm. Uống được trà từ giống này là một niềm vinh dự tối thượng. Có hai thuyết về “Tống Chủng”:

  • Một cho rằng đây là giống trà được trồng từ cây mà hoàng đế Nam Tống từng dùng lá để giải khát.
  • Còn một cho rằng chính trên núi Phượng Hoàng vẫn còn những cây trà được trồng từ thời Tống thật sự.

Cây mẹ “Tống Chủng” thuộc dòng hương Hoàng Chi (hoa chi tử). Đây là một trong những hương đặc trưng nhất của Phượng Hoàng Đơn Tùng. Nó từng mang nhiều tên gọi như “Ngọc Trân Trên Đá”, “Cây Đoàn Kết”, “Đông Phương Hồng”, nổi tiếng vì giống quý, cây cổ thụ, hương độc đáo.

Núi Phượng Hoàng – nơi đất trời giao hòa mà sinh ra hương

Phượng Hoàng sơn sản xuất trà ngon chính là nhờ điều kiện địa lý ưu việt. Núi cao từ 300 đến 1.400 mét, có hai đỉnh chính là Phong Điểu Kế Sơn và Ô Đông Sơn. Quanh năm mây phủ, ánh nắng nhẹ, khí hậu ôn hòa, mưa nhiều, độ ẩm trung bình 80%. Đất hơi chua, giàu hữu cơ và vi lượng rất thuận lợi cho sự hình thành polyphenol trà và các hợp chất tạo hương.

Mười mùi hương chính của Đơn Tùng

“Đơn Tùng” nghĩa là trồng riêng từng cây, hái riêng từng cây, đảm bảo chất lượng tinh thuần tuyệt đối. Trà càng được trồng cao, vị càng thanh, nước trà càng ngọt, dư vị càng dài và càng bền khi pha.

Qua hàng trăm năm, những cây trà cổ biến hóa thành nhiều giống khác nhau. Theo hình dạng lá, màu sắc, thời vụ hái,… mà người ta phân loại. Cách phân loại phổ biến nhất nay là theo hương vị, gồm mười loại chính: Hoàng Chi hương, Chi Lan hương, Ngọc Lan hương, Mật Lan hương, Dạ Lai hương, Nhục Quế hương, Thông Thiên hương,…

Phượng Hoàng Đơn Tùng, với hương thơm mạnh mẽ, cùng Nham Trà Vũ Di và Thiết Quan Âm tạo thành tam đại Ô Long của Trung Hoa.
Nếu chia theo đặc điểm:

  • Nham trà: hương đậm, vị dày.
  • Thiết Quan Âm: hương thanh tao, vị dịu.
  • Phượng Hoàng Đơn Tùng: hương sắc sảo, vị ngọt hậu.

“Trà Phân Vịt” – cái tục đi đến tận cùng lại hóa nhã

Trong vô vàn dòng hương của Phượng Hoàng Đơn Tùng, có một loại tên nghe rất “quê mùa”, nhưng lại nổi bật nhất – “Áp Thỉ Hương (trà Cứt vịt)” (鸭屎香).

Chuyện kể rằng, một người nông dân lên núi hái trà, tình cờ gặp cây lá xanh đen kỳ lạ. Ông hái thử, chế biến thành trà. Lá trà khô xanh sẫm óng ánh, hương thơm nồng nàn, vị đậm đà khác thường. Khi quay lại tìm gốc, ông chỉ thấy quanh cây có vài đống… phân vịt. Thế là đặt tên vui: Hương Phân Vịt.

Áp Thỉ Hương tên gọi lạ, dân giã nhưng lại rất nổi bật

Xem thêm: Áp Thỉ Hương và Mật Lan Hương: Cặp song bích rực rỡ trong thế giới trà Phượng Hoàng Đơn Tùng

Cái tên “quê mùa đến rơi đất” ấy lại khiến người ta nhớ mãi. Và chính nó thể hiện một thứ đạo vị giản phác, nhìn rõ bản chất, không tô vẽ, đại tục tức đại nhã.

Loại trà này còn gọi là Ngân Hoa Hương Đơn Tùng, sợi trà to chắc, xanh sẫm bóng. Khi pha hương thơm nồng nàn, nước vàng xanh tươi sáng, vị đậm đà hơi đắng nhưng ngọt hậu dài lâu, rất bền nước.

Kết luận

Phượng Hoàng Đơn Tùng là loại trà khiến người ta kinh ngạc vì vẻ đẹp bí ẩn. Trước khi nếm thử, nó như cô gái thùy mị e ấp, giấu bao câu chuyện sau màn sương. Khi nước sôi chạm vào, hương bùng nổ mạnh mẽ, hoang dại như vũ khúc của cô gái miền biên viễn khiến lòng người rung động.

Khi bạn còn đang mê đắm trong dư hương ấy, những “chị em” của nàng lại lần lượt xuất hiện: kẻ thanh khiết như hoa chi tử, người nồng nàn hơn cả hoa quế, có kẻ lại kiêu sa như hoa gừng. Một thế giới hương sắc kỳ diệu, chỉ có thể gặp trong mộng đẹp.

TSTN tổng hợp và dịch