/ / / Phân loại Phổ Nhĩ & Các vùng trà nổi tiếng (Phần 1)

Phân loại Phổ Nhĩ & Các vùng trà nổi tiếng (Phần 1)

Phổ Nhĩ là dòng trà đặc trưng của tỉnh Vân Nam, được chế biến từ lá trà đại diệp chủng phơi nắng trong phạm vi khu vực được chỉ định. Dựa vào phương pháp chế biến và trạng thái lên men, Phổ Nhĩ được chia thành hai nhóm chính: Phổ Nhĩ sống và Phổ Nhĩ chín. Mỗi loại mang cấu trúc hương vị, màu nước và giá trị lưu trữ hoàn toàn khác nhau, tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt với người yêu trà.

Phổ Nhĩ sống

Phổ Nhĩ sống được chế biến từ lá trà tươi thuộc giống đại diệp chủng. trải qua các công đoạn: diệt men, vò, phơi nắng, ép bánh. Nhờ không qua giai đoạn ủ đống (wo dui), Phổ Nhĩ sống mang “khí” mạnh, giàu năng lượng và biến đổi theo thời gian.

Đặc điểm của Phổ Nhĩ sống

  • Ngoại hình: màu xanh đen ánh mực
  • Hương vị: thanh khiết, mạnh mẽ, hậu ngọt sâu
  • Nước trà: vàng xanh trong sáng
  • Lá nền: vàng lục, dày, đàn hồi tốt
  • Tính chất: càng để lâu, nội hương càng tròn đầy, giá trị sưu tầm tăng lên theo năm.

Phổ Nhĩ sống thường được gọi là “vua trà đa polyphenol”, bởi hàm lượng polyphenol trong lá đại diệp chủng cao gấp khoảng ba lần so với Long Tỉnh và nhiều loại lục trà phổ thông. Nhờ đó, trà có ưu điểm về chống oxy hóa, hỗ trợ giảm lão hóa và bảo vệ cơ thể.

Hàm lượng polyphenol trong Phổ Nhĩ sống rất cao

Ở những năm đầu, Phổ Nhĩ sống sẽ hơi chát và “xanh”, sau vài năm sẽ dịu lại, chuyển hướng thanh – ngọt – thoát vị, mang nét hương trầm cổ mộc rất đặc trưng.

Phổ Nhĩ chín

Phổ Nhĩ chín sử dụng cùng loại nguyên liệu với Phổ Nhĩ sống, nhưng được lên men thông qua kỹ thuật ủ đống (渥堆 – wo dui). Quá trình này được cải tiến vào khoảng năm 1973 nhằm mô phỏng sự lão hóa tự nhiên của Phổ Nhĩ sống lâu năm.

Đặc điểm của Phổ Nhĩ chín

  • Nước trà: đỏ nâu trong sáng
  • Hương: trầm ấm, mộc, có sắc thái “trần hương”
  • Vị: ngọt dịu, tròn đầy, ít chát
  • Tính chất: êm, ấm, phù hợp người dễ bị lạnh bụng hoặc khó ngủ
Sau khi cất trữ, Phổ Nhĩ chín sẽ trở nên dày vị, sâu tầng

Sau khi được cất trữ, Phổ Nhĩ chín càng trở nên dày vị, sâu tầng hương và dễ uống hơn. Trà chứa nhiều lợi khuẩn có lợi, hỗ trợ giảm mỡ máu, giảm cân, cải thiện tiêu hóa.

Xem thêm: Người mới bắt đầu nên chọn Phổ Nhĩ sống hay chín?

Ba đại vùng trà Phổ Nhĩ

Phổ Nhĩ cổ điển được phân chia thành ba vùng lớn:

1. Tây Song Bản Nạp

Khu vực trà Tây Song Bản Nạp chủ yếu được chia thành hai vùng lớn: Mãnh Hải (勐海) và Dịch Vũ (易武).

Trà vùng Mãnh Hải nằm ở nơi có nhiệt độ cao, lượng mưa dồi dào. Chất trà mạnh, hương cao, độ chát rõ. Dịch Vũ lại có nhiệt độ và lượng mưa cao nhất Tây Song Bản Nạp, trà cổ thụ phong phú, chất trà dày, hương độc đáo. Vị đắng và chát nhẹ, nước mềm và ngọt.

Cổ Lục Đại Trà Sơn

Danh xưng “Cổ Lục Đại Trà Sơn” xuất hiện sớm nhất trong Vân Nam Chí Lược của Lý Kinh (thời Nguyên). Sách ghi:

“Lục đại cổ trà sơn: một là Du Lạc, hai là Mãng Chi, ba là Cách Đăng, bốn là Ỷ Bang, năm là Man Chuyên, sáu là Man Tát…”

Trong đó, Dịch Vũ là hậu duệ của Mansa (Man Tát) sau trận đại hỏa.

Du Lạc (攸乐)

Du Lạc thuộc địa phận thành phố Cảnh Hồng, là cổ trà sơn duy nhất không nằm trong huyện Mảnh Lạp. Độ cao 950–1400 m, ngày nay gọi là núi Cơ Nặc (基诺山). Trà Du Lạc có nước dày, vị ngọt tốt, hương trầm ổn, tính trà hơi mạnh, có khí vận núi rừng, khi uống tạo lực tác động rõ.

Nước trà Phổ Nhĩ chín trong ấm, đỏ hổ phách
Mãng Chi (莽枝)

Mãng Chi thuộc hương Tượng Minh, thôn An Lạc; đối diện Du Lạc qua dòng sông, phía đông bắc nối với Cách Đăng. Độ cao 1100 – 1500 m, từng là trung tâm giao dịch trà thời Thanh. Trà Mãng Chi tươi, dày, hơi chát, hồi ngọt mạnh, sinh tân nhanh.

Cách Đăng (革登)

Cách Đăng cũng thuộc hương Tượng Minh, thôn An Lạc, độ cao 1080–1500 m. Nơi đây từng có cây trà vương cổ lớn nằm sau thôn Tân Tửu Phường, đã mất vào thời Dân Quốc. Các thôn nổi tiếng: Tân Tửu Phường, Trực Bàng, Mã Lộc Đường, Thái Viên Hà.

Trà Cách Đăng có hương đặc biệt, đầu môi ngọt nhẹ như mật, hơi đắng, vị ngọt đầu lưỡi rõ; giữa – cuối vị hơi đắng nhưng có dư vận ngọt, nước hơi mỏng.

Ỷ Bang (倚邦)

Ỷ Bang thuộc giống chu mộc tiểu diệp chủng, búp nhỏ, sợi trà đen sáng và ngắn. Nước trà vàng lục, lá vàng lục; vị đắng nhẹ, đắng xen ngọt, chát nhiều hơn đắng, nước đầy. Hồi ngọt nhanh, kéo dài; hương thanh u nhã, đậm khí núi rừng, lưu hương đáy chén tốt. Thời xưa, nhiều trà cống phẩm của triều Thanh xuất từ Ỷ Bang.

Man Chuyên (蛮砖)

Man Chuyên thuộc hương Tượng Minh, độ cao 1100 – 1300 m. Các thôn nổi tiếng: Bát Tổng, Man Chuyên, Tân Man Củng, Tiểu Man Long, Mễ Liên, Man Lâm, Ngõa Long, Man Thiên,…

Trà Man Chuyên là chu mộc đại diệp chủng, khá đắng, chát, hồi ngọt mạnh, sinh tân tốt; mặt lưỡi và vòm miệng giữa, cuối có cảm giác dày mượt. Có câu xưa: “Uống Man Chuyên nhìn Ỷ Bang.”

Man Tát (曼撒)

Man Tát cách cổ trấn Dịch Vũ 20 km, giáp Lào chỉ cách một biên giới. Địa hình phức tạp, chênh lệch cao lớn: đỉnh cao nhất 1950 m, thấp nhất 750 m.

Ba trận đại hỏa kèm dịch bệnh đã biến Man Tát thành “thành hoang”, vị trí trong giới Phổ Nhĩ bị Dịch Vũ thay thế. Nay các thôn như Cao Gia Xứ, Lão Tống Cựu Gia, Đại Trại Cựu Gia, Từ Gia Lương Tử hầu như không còn người ở.

Dịch Vũ (易武)

Dịch Vũ có độ cao 680–2023 m. Nơi nổi danh với “Thất thôn bát trại”:

  • Bảy thôn: Ma Hắc, Cao Sơn, Lạc Thủy Động, Man Tú, Tam Hà Xã, Dịch Tỷ, Trương Gia Loan.
  • Tám trại: Quải Phong Trại, Đinh Gia Trại, Cựu Miếu Trại, Lỏa Đức Trại, Đại Trại, Man Tát Trại, Tân Trại.

Trà Dịch Vũ tốt nhất là trà rừng quốc hữu, trong đó Bạc Hà Đường là nơi có giá cao nhất. Thuộc giống chu mộc đại diệp chủng, đặc trưng hương cao, nước mềm, độ kích thích thấp, nước vàng nhạt sáng, vị dày, ngọt hương, đắng – chát thấp, hồi ngọt sinh tân bền; lá tươi, đều, chất trà ưu việt, cực kỳ bền nước.

Tân Bát Đại Trà Sơn

Tân Bát Đại Trà Sơn nhiều hơn Cổ Bát Đại Trà Sơn hai ngọn, nằm ở phía tây sông Lan Thương (Mê Kông). Tính từ bắc xuống nam gồm: Mãn Nuốc, Mông Tống, Nam Noa Sơn, Pha Sa, Hạc Khai, Bố Lãng Sơn, Ba Đạt và Cảnh Mại. Trong đó, Cảnh Mại Sơn thuộc huyện Lan Thương.

Các vườn trà cổ chủ yếu phân bố trên những triền núi cao 1.200 – 1.800m, lượng mưa hằng năm từ 1.200 – 1.400mm. Khí hậu ôn hòa, mưa nhiều, quanh năm mây mù bao phủ tạo nên môi trường lý tưởng cho cây trà sinh trưởng. Sự khác biệt về độ cao và khí hậu cũng tạo nên “mỗi núi một vị” cho Tân Bát Đại Trà Sơn.

Nam Noa Sơn (南糯山)

“Nam Noa” trong tiếng Thái nghĩa là “mắm măng”. Núi cách huyện Mãnh Hải khoảng 26 km, từ lâu đã là một trong những cổ trà sơn nổi tiếng nhất ở bờ tây hạ lưu sông Lan Thương, cũng là vùng nguyên liệu quan trọng của Phổ Nhĩ hảo phẩm.

Mỗi vùng trà mang lại một hương vị đặc trưng cho Phổ Nhĩ

Trà Nam Noa thuộc giống đại diệp trà cổ thụ, cánh trà dài và xoắn chặt. Nước trà vàng cam, trong sáng; vị đậm, hậu ngọt nhanh; vị se kéo dài hơn vị đắng; có độ sinh tân tốt; hương không quá nổi nhưng khí vận sơn dã rất rõ.

Pha Sa (帕沙)

“Pha Sa” nghĩa là “một ngọn núi, một dòng sông”. Trà sơn nằm ở xã Cách Lang Hòa, tây nam huyện Mãnh Hải, giữa Nam Noa Sơn và Bố Lãng Sơn. Độ cao 1.200–2.000m, nhiệt độ trung bình năm 22°C, lượng mưa khoảng 1.500mm. Vùng cổ thụ gồm Pha Sa Tân Trại, Pha Sa Lão Trại, Pha Sa Trung Trại, Nam Cán, Lão Đoan,…

Trà Pha Sa có vị đắng – chát rõ, nhưng tan nhanh; vị ngọt thanh và sinh tân mạnh, khí vận sơn dã dồi dào.

Mông Tống (勐宋

Mông Tống là một trong những cổ trà khu lâu đời nhất của Mãnh Hải. Từ các khu cổ trà cực lớn còn lại tại thôn Bảo Đường, có thể thấy lịch sử trồng trà của cư dân nơi đây lâu đời ngang với Nam Noa Sơn. Vùng cổ thụ gồm Đại Trại Mông Tống, núi Miêu Trừ, Lão Trại Mạn Thiên, Mạn Giáp Pha Khản, Mạn Ô Khoa, Mạn Giáp Cán Biên, Mạn Giáp Giác, Mạn Mại Diêu,…

Trà Mông Tống có cánh xoắn chặt, đen bóng, nước vàng kim sáng, lá vàng xanh đều, khí vận mạnh. Hương bám đáy chén tốt, đắng chát nổi, nhưng trong nước có vị ngọt, hậu ngọt nhanh và tốt, nước dày, hương thuần.

Bố Lãng Sơn (布朗山)

Nằm ở nam huyện Mãnh Hải, sát biên giới Trung – Miến. Bố Lãng Sơn là vùng trà nổi tiếng, trong đó Lão Bản Chương và Lão Mạn Nga là hai danh sơn lẫy lừng.

Đặc điểm chung của trà Bố Lãng: đắng chát mạnh, hậu ngọt nhanh, sinh tân mạnh; hương độc đáo như hương mơ, hương mật, hương lan.

Lão Ban Chương:
– Khí vận sơn dã cực mạnh.
– Hương cổ thụ nổi bật, nằm giữa lan hương và mật hương.
– Đắng chát tan nhanh (khoảng 1 phút), chuyển sang vị ngọt kéo dài trong khoang miệng và cổ họng.
– Trà khí mạnh, uống xong người nóng nhẹ toàn thân.
– Rất bền nước (trên 10 lần).

Xem thêm: Vì sao nói “Ban Chương là Vương, Băng Đảo là Hậu”?

Lão Mạn Nga:
– Cánh trà đen bóng, hơi thô, mập.
– Vị mạnh, đắng chát rõ, nước dày; khí vận mạnh; hậu ngọt dai.

Trà Bố Lãng nói chung: hương đầy, nước mượt, sắc vàng sáng; nhược điểm là đắng nặng và chát có thể tan chậm, nhưng có thể điều chỉnh bằng lượng trà, dụng cụ, và thời gian ra nước.

Ba Đạt (巴达)

Ba Đạt Sơn cách huyện Mãnh Hải 58 km về phía tây, trước thuộc Mãnh Trát, sau cải thành Nam Cảo. Vườn cổ thụ chủ yếu ở các bản người Bố Lãng: Chương Lãng, Mạn Mại Đuổi, Mạn Pha Na,… trong đó Chương Lãng nhiều cổ thụ nhất. Trà Ba Đạt có vị đắng chát mạnh, hậu ngọt và sinh tân nhanh, cánh trà xanh đen bóng, hương mơ, hương mật.

Chương Lãng:
– Cánh xoắn chặt, đen bóng.
– Nước vàng kim sáng; lá vàng xanh đều.
– Khí vận mạnh; hương khô và hương đáy chén rất dài.
– Đắng chát rõ; nước dày và ngọt; hương thuần; trà khí mạnh.
– Chất trà tiệm cận Lão Bản Chương.

Mãn Nuốc (曼糯)

Nằm ở cực bắc huyện Mãnh Hải, thuộc xã Mãnh Vãng, giáp Lan Thương và Tư Mao của Phổ Nhĩ. Đây là điểm đầu tiên sông Lan Thương đi vào Tây Song Bản Nạp. Cao 1.200–1.300m, mưa 1.300 – 1.400mm.

Đặc điểm:
– Cánh xoắn chặt, đen bóng.
– Nước vàng kim sáng; lá vàng xanh đều.
– Khí vận mạnh, hương bám đáy chén tốt.
– Đắng rõ, chát dài; trong nước có ngọt; hậu ngọt hơi chậm nhưng tốt; nước khá dày.

Hạc Khai (贺开)

“Vùng đón ánh mặt trời đầu tiên”. Thuộc trấn Mãnh Hỗn, huyện Mãnh Hải; bắc giáp Nam Noa Sơn; đông sát hồ chứa La Đạt Mãnh; tây nhìn ra thung lũng Mãnh Hỗn. Cao 1.400–1.700m.

Đặc điểm:
– Cánh trà đen bóng, dài và xoắn chặt.
– Nước vàng kim sáng.
– Đắng nhẹ, chát nổi hơn đắng; đắng hóa ngọt nhanh; chát kéo dài.
– Nước đầy, khí vận mạnh; hương đáy chén rõ và lâu.

Cảnh Mại Sơn (景迈山)

Cảnh Mại nổi tiếng với vạn mẫu cổ trà viên, chủ yếu là trà trăm năm. Sinh thái nguyên sơ, cây trà không bị đốn thấp, cành phủ đầy rêu, dây leo, nấm dại và nhiều loài lan phụ sinh, trong đó có “cua chân” (螃蟹脚) – loài phụ sinh đặc hữu.

Đặc điểm:
– Cánh xoắn chặt, đen bóng, nhỏ.
– Do sinh trưởng trong rừng, chu kỳ dài nên màu trà rất đen bóng.
– Chát mạnh, hậu ngọt và sinh tân rất tốt.

TSTN tổng hợp và dịch