Tìm hiểu các dòng đất thuộc nhóm Tử Nê (Phần 3)
Đặc điểm theo từng loại (tt)
Dã Sơn Hồng Tông Tử Nê khu mỏ Đài Tây
Khoáng chất có hình dạng khối đặc, sắc đỏ nâu đặc trưng, kết cấu khá cứng và rắn chắc. Trên bề mặt khoáng thường xuất hiện các mảnh vụn mica trắng với mật độ vừa phải, xen lẫn là các đốm màu vàng xanh cùng vết gỉ sét – những dấu hiệu của quá trình phong hóa tự nhiên kéo dài.

- Đặc tính đất: Độ dẻo trung bình, hơi bở khi tạo hình, mang tính cát nhất định trong quá trình chế tác. Khoảng nhiệt độ nung rộng, phù hợp với nhiều dạng sản phẩm.
- Nhiệt độ nung phổ biến: 1180 – 1220°C.
- Độ co rút: ~3,5%.
- Sau khi nung: Đất chuyển sang tông đỏ tím nâu đậm. Kết cấu hạt bên trong thân đất hiện rõ, tạo hiệu ứng thị giác sinh động. Tuy nhiên, độ thuần nhất của màu sắc bề mặt không cao, đôi khi có thể xuất hiện tạp điểm hoặc sự loang màu nhẹ.

Dã Sơn Hồng Tông Tử Nê khu mỏ Đài Tây (non)
Khoáng chất có hình khối đặc, đỏ nâu, hơi cứng nhưng dễ vỡ hơn so với loại trưởng thành. Mica trắng phân bố nhiều và rõ trên bề mặt khoáng, làm tăng thêm độ thô mộc và cá tính cho nguyên liệu.

- Đặc tính đất: Độ dẻo trung bình, hơi bở, mang tính cát nhất định khi tạo hình.
- Nhiệt độ nung phổ biến: 1170 – 1220°C.
- Độ co rút: ~4%.
- Sau khi nung: Đất chuyển thành sắc đỏ tím nâu trầm ấm. Thân đất tương đối tinh khiết, kết cấu mịn màng và đồng đều. Bề mặt hiện sắc đỏ sáng và bóng, đem lại vẻ đẹp thanh lịch và tinh tế cho sản phẩm hoàn thiện.

Dã Sơn Hồng Tông Tử Nê khu mỏ Đài Tây (lão)
Loại khoáng này có màu tím nâu đậm, hình khối đặc, cực kỳ cứng chắc, gần như đá. Trên bề mặt thường thấy các vết vân và đốm xanh nhạt xen kẽ, cùng lượng lớn mica trắng phân bố rải rác – đặc trưng của khoáng chất già, lâu năm.

- Tính chất đất luyện: Độ dẻo kém, dễ bị bở hoặc nứt trong quá trình tạo hình. Mang tính cát rõ rệt, không dễ xử lý.
- Nhiệt độ nung phổ biến: 1180 – 1210°C.
- Độ co rút: ~3%.
- Sau khi nung: Đất giữ tông màu đỏ tím nâu quen thuộc. Nhưng thân đất có xu hướng khô ráp, dễ thấy tạp chất và mica trắng còn sót lại. Bề mặt thiếu độ mịn và bóng, màu sắc không đạt độ tinh khiết cao, chủ yếu phù hợp cho những sản phẩm cần vẻ ngoài mộc mạc, nguyên sơ.

Thiên Thanh Nê
Khoáng chất quý hiếm này được khai thác tại khu vực phía Bắc Đầm Lớn (Đại Thủy Đàm), thuộc thôn Lệ Thự, cách khu trung tâm khoảng hơn 100 mét về phía Tây. Khoáng có kết cấu đồng đều, màu nâu tím pha đỏ nhẹ, dạng khối đặc, dễ vỡ và hơi cứng. Hàm lượng mica trắng rất thấp, bề mặt khoáng thường hiện vân vỏ sò đặc trưng cùng lớp sáp trắng, tạo nên đốm trắng sau khi nung. Mặt cắt bên trong thường có màu tím đen pha đỏ – một đặc điểm dễ nhận biết.

Tên gọi “Thiên Thanh Nê” bắt nguồn từ sự tương đồng về màu sắc với loại thuốc nhuộm cổ đại mang tên “thiên thanh” – màu xanh lam đậm đặc trưng.
- Tính chất đất luyện: Độ mịn cao, tính dẻo tốt, có cảm giác bùn cát nhẹ trong quá trình tạo hình.
- Nhiệt độ nung phổ biến: 1160 – 1210°C.
- Độ co rút: ~8%

Sau khi nung, đất mang sắc gan lợn sẫm, bề mặt mịn màng với vân da lê tự nhiên. Thân đất chặt, kết cấu tinh tế, bóng sáng và có chiều sâu màu sắc. Một điểm đặc biệt: lớp đất phủ của Thiên Thanh Nê chính là Lê Bì Nê, sau khi nung sẽ hiện sắc như vỏ quả lê chín – trùng khớp với ghi chép cổ trong Dương Hiện Trà Hồ Hệ (《阳羡茗壶系》):
“Thiên thanh nê xuất xứ từ Lệ Thự, nung thành màu gan sẫm, trong đó xen lẫn Lê Bì Nê, khi nung thành hiện màu lê thạch.”

Ngoài ra, Ngọc Lịch – Quang Tự năm thứ 8 (光绪八年《宜兴县志》) cũng xác nhận:
“Thiên thanh nê quý nhất trong các loại đất, dùng riêng để chế tác trà hồ.”
Thiên Thanh Nê vốn đã hiếm trong lịch sử, đến thời hiện đại gần như biến mất. Nhờ công trình mở đường Tử Sa gần đây, loại đất quý này mới có cơ hội được khai quật và phục hồi lại sau nhiều thập kỷ.
Thanh Hôi Tử Nê
Được khai thác từ cùng tầng khoáng với Thiên Thanh Nê, loại đất này có màu nâu xám tím, hình khối đặc và khá cứng. Trên bề mặt xuất hiện những đốm xanh nhạt li ti dạng hạt đậu cùng các vân tự nhiên độc đáo. Mica trắng chỉ tồn tại ở lượng rất nhỏ, và ở dạng hạt mịn.

- Tính chất đất luyện: Mịn, dẻo tốt, cảm giác bùn cát nhẹ khi tạo hình.
- Nhiệt độ nung phổ biến: 1180 – 1200°C.
- Độ co rút: ~6%.
- Sau khi nung: Đất hiện sắc tím nâu pha xanh xám, bề mặt bóng mịn, thân đất chắc và hiện vân da lê nhẹ. Màu sắc có chiều sâu, tinh tế và thanh nhã. Khi nung ở nhiệt độ cao hơn, sắc đất chuyển dần sang tông tím đen trầm ấm.

Tử Nê mỏ Đầm Lớn
Cũng được khai thác từ cùng tầng khoáng với Thiên Thanh Nê, loại tử nê này có sắc đỏ tím sẫm rất đặc trưng, khối khoáng rắn chắc như đá và chỉ chứa lượng nhỏ mica trắng. Bề mặt khoáng thường xuất hiện các đốm đỏ nhạt và lớp sáp trắng, tạo nên hiệu ứng đốm nhẹ sau nung.

- Tính chất đất luyện: Dẻo khá tốt, hơi bở khi tạo hình, có tính bùn cát.
- Nhiệt độ nung phổ biến: 1190 – 1230°C.
- Độ co rút: ~5%.
- Sau khi nung: Đất ngả sang sắc đỏ tím sâu, kết cấu chặt chẽ và chắc chắn. Bề mặt hiện vân da lê thô, hạt đất lộ nhẹ, mang lại hiệu ứng thị giác sống động, tinh tế và sáng bóng. Đây là loại tử nê đặc biệt thích hợp cho các sản phẩm cao cấp cần màu sắc ổn định và bề mặt thể hiện rõ độ thủ công.

Tử Nê mỏ Đầm Lớn (non)
Khoáng chất có màu đỏ tím, ở dạng khối đặc, khá cứng, chứa một lượng nhỏ mảnh vụn mica trắng. Trên khoáng có các đốm và vân màu đỏ nhạt.

- Tính chất đất luyện: Đất luyện khá mịn, tính dẻo tốt, khi tạo hình mang tính bùn cát nhất định.
- Nhiệt độ nung phổ biến: 1180 – 1220°C.
- Độ co rút: ~5,5%.
- Sau khi nung: Đất hiện tông màu đỏ tím nâu, thân đất chặt chắc, có vân da lê thô, bề mặt lộ hạt nhẹ, màu sắc tinh tế và bóng dầu. Khi nung ở nhiệt độ cao hơn, chuyển sang sắc tím đen.

Tử Nê mỏ Đầm Lớn (lão)
Khoáng chất có màu nâu tím đậm, ở dạng khối đặc, cứng chắc như đá, chứa khá nhiều mảnh vụn mica trắng. Trên khoáng có các đốm và vân màu xanh lục lam.

- Tính chất đất luyện: Đất luyện có độ dẻo hơi kém, dễ bở khi tạo hình, mang tính cát nhất định trong quá trình chế tác.
- Nhiệt độ nung phổ biến: 1180 – 1220°C.
- Độ co rút: ~4,5%.
- Sau khi nung: Đất có sắc đỏ tím, thân đất hơi khô ráp, lượng mica trắng còn sót lại tương đối nhiều, độ thuần sắc bề mặt không cao. Khi nung ở nhiệt độ cao hơn, chuyển sang màu tím đậm.

TSTN tổng hợp và dịch


