/ / Vì sao sứ Long Tuyền được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại?

Vì sao sứ Long Tuyền được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại?

Trung Hoa là cái nôi của nghệ thuật gốm sứ, nơi sản sinh ra vô số danh sứ: trắng tinh khiết như bạch sứ, hoa lệ như thanh hoa, uyển chuyển như phấn thái,… Nhưng giữa muôn hình vạn trạng ấy, chỉ có thanh sứ được ví như “đóa hoa của gốm sứ” vừa sâu lắng, vừa thanh khiết, thấm đẫm tinh thần Á Đông.

Giữa bao lò gốm trứ danh, sứ Long Tuyền của vùng Chiết Giang được xem là đỉnh cao nghệ thuật. Năm 2009, kỹ nghệ chế tác sứ Long Tuyền được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Điều gì đã làm nên giá trị trường tồn cho dòng sứ mang sắc xanh tĩnh tại này?

Màu xanh của núi ngàn: Huyền thoại men thanh

Người xưa từng nói: “Gom hết sắc xanh nghìn đỉnh núi, mới ra được một màu men thanh sứ.” . Trong mỹ học cổ đại, màu “thanh” không đơn thuần là xanh lam. Nó bao gồm cả lục ngọc, lam ngọc, những sắc độ tinh tế khó phân định bằng mắt thường.

Chén Long Tuyền thời Đường
Bát miệng hoa men bí sắc đời Đường – Bảo tàng Pháp Môn Tự lưu giữ
Bí sắc – Bước chuyển quan trọng của nghệ thuật men thanh

Trước thời Đường, men thanh của Việt Diêu đã đạt đến trình độ cao. Tuy nhiên, chủ yếu chỉ cho ra sắc thanh nhạt hoặc xám xanh. Đến cuối đời Đường, sứ “bí sắc” xuất hiện với lớp men mỏng nhẹ, trong sáng, lấp lánh. Đây được xem là phẩm vật thượng hạng.

Bát sen men bí sắc thời Ngũ Đại
Bát sen men bí sắc thời Ngũ Đại, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Tô Châu
Long Tuyền thời Nam Tống – Thời đại rực rỡ của thanh sứ

Thời Nam Tống, Long Tuyền tiếp thu kỹ thuật gốm từ phương Bắc, mở ra đỉnh cao lịch sử của thanh sứ Trung Hoa. Giai đoạn này, Long Tuyền tạo ra loại men dày như bích ngọc với hai loại nền: nền trắng và nền đen.

  • Nền trắng: thân gốm mịn, sắc trắng ngà ánh xanh.
  • Nền đen: thân sẫm màu, men trong vắt, thường kết hợp kỹ thuật nứt men (khai phiến) để tăng chiều sâu thị giác.
Bát thanh sứ Long Tuyền nền đen thời Nam Tống

Đặc biệt, hai sắc độ men nổi bật nhất gồm:

  • Phấn thanh: xanh ngọc ánh hồng, như sương mai vương cánh hoa đào.
  • Mai tử thanh: xanh thẫm, tươi mướt như trái mơ chín mọng.
Bình hoa mận họa tiết dây men xanh Long Tuyền
Bình hoa mận họa tiết dây men xanh Long Tuyền thời Nam Tống
Lư kiểu quỹ phủ men thanh mận Long Tuyền
Lư kiểu quỹ phủ men thanh mận Long Tuyền thời Nam Tống

Ngoài ra còn có đậu thanh (xanh vàng nhạt, độ bóng nhẹ) và ảnh thanh – men xanh mỏng, pha ánh trắng như vầng trăng non.

Sự thăng hoa từ thiên thời, địa lợi, nhân hòa

Một món sứ đẹp là kết quả của nhiều yếu tố tình cờ: nơi sinh ra phải hội tụ thiên nhiên ưu đãi, người làm sứ phải đủ kiên nhẫn và khéo léo. Chính những “ngẫu nhiên” ấy mới tạo nên điều “tất nhiên” – một tuyệt phẩm thanh sứ.

Lò nung Long Tuyền Chiết Giang

Danh sư Trần Vạn Lý từng nói:

Một nửa lịch sử gốm sứ Trung Quốc nằm ở Chiết Giang; một nửa lịch sử gốm sứ Chiết Giang nằm ở Long Tuyền.

Từ gốm thanh nguyên thủy thời Thương Chu đến sứ thanh trưởng thành từ thời Đông Hán, Long Tuyền đã có gần 2000 năm lịch sử. Màu men Long Tuyền được quyết định bởi hàm lượng sắt trong đất sét và men. Tuy nằm sâu trong vùng núi Chiết Giang, Long Tuyền lại có đầy đủ tài nguyên như rừng cây, đá làm sứ, khoáng vật, và có sông Âu Giang thuận tiện giao thương đường thủy.

Thời Tam Quốc – Tây Tấn, người dân Long Tuyền học hỏi kỹ thuật từ Việt Diêu, Âu Diêu và bắt đầu làm sứ, dù ban đầu còn thô sơ và quy mô nhỏ. Sang thời Ngũ Đại – Bắc Tống, do nhu cầu cống phẩm bí sắc tăng vọt, Việt Diêu quá tải nên Long Tuyền được chọn để “chia lửa”. Nhờ tiếp nhận công nghệ tiên tiến và thợ giỏi, sứ Long Tuyền nhanh chóng cải thiện chất lượng.

Tỏa sáng thời Nam Tống, lan truyền khắp năm châu

Nam Tống là thời kỳ hoàng kim của Long Tuyền. Để khắc phục tài chính quốc gia, triều đình tận dụng thương mại đường biển, đưa thanh sứ Long Tuyền xuất khẩu rộng khắp thế giới, trở thành sản phẩm chủ lực. Người phương Tây gọi thanh sứ là Celadon – ám chỉ chính là sứ Long Tuyền.

Quá trình chế tác sứ Long Tuyền gồm: phối liệu → tạo hình → sửa thô → trang trí → nung sơ → tráng men → xếp lò → nung chính. Với gần trăm công đoạn, cần hàng chục ngày để hoàn thành.

Một kỹ thuật nổi bật là “tiếu đao” – điêu khắc nhảy dao. Nghệ nhân dùng dao khắc lướt nhanh trên thân sứ, tạo ra họa tiết động và có chiều sâu. Khi phối cùng sắc men trong như ngọc, sứ Long Tuyền hiện lên vẻ đẹp vừa cổ kính vừa sáng tạo.

Bình thiên cầu họa rồng
Tác phẩm của Hạ Hầu Văn – Bình thiên cầu họa rồng

Nghệ nhân Trần Ái Minh, bậc thầy đương đại, nổi tiếng với họa tiết tiếu đao sống động, đa chiều. Trong khi đó, nghệ nhân Hạ Hầu Văn – người kế thừa truyền thống Long Tuyền – đã sáng tạo kỹ thuật phối kết Cách Diêu (nền đen, nứt men) và Đệ Diêu (nền trắng, không nứt). Ông mở ra hướng mới – hội họa trực tiếp trên nền men. Ông chia sẻ:

Gốm sứ có tính cách, nghệ thuật biết nói. Đây là tác phẩm của tôi, chỉ nhìn là nhận ra ngay.

Tinh hoa Đông phương trong từng món sứ

Long Tuyền là nơi hội tụ tâm ý, mỹ cảm và cơ duyên. Người nghệ nhân gửi cả cuộc đời mình vào từng món sứ, để khi nhìn lại, cả đời họ chính là hàng trăm, hàng ngàn món đồ xanh biếc dịu dàng ấy.

Thanh sứ mang vẻ đẹp huyền ảo, trong trẻo, ấm áp , nuôi dưỡng tâm hồn người Trung Hoa suốt bao thế hệ. Mỗi món Long Tuyền là một phần phong cảnh, cũng là một phần tâm cảnh của con người.

Lặng lẽ như núi. Trong sáng như gương. Dịu dàng như nước.

Sứ Long Tuyền chính là đỉnh cao nghệ thuật của Đông phương, là di sản vĩnh cửu của nhân loại.

TTSTN tổng hợp và dịch