Tìm hiểu các dòng đất thuộc nhóm Hồng Nê (Phần 3)
Đặc điểm theo từng loại (tt)
Chu Nê
Chu Nê thuộc loại bùn đá sét, chủ yếu sản xuất ở khu vực Triệu Trang Sa Sơn và Hồng Vệ Hương Sơn. Hoàng Long Sơn cũng có Chu Nê, tuy sản lượng rất ít nhưng vẫn có những loại cực phẩm hiếm.
Các dạng khai thác Chu Nê Hoàng Long Sơn
Chu Nê Hoàng Long Sơn thường có hai dạng khai thác:
- Loại thứ nhất: Nằm sát dưới tầng đá vàng nông, phân bố rộng nhưng mạch quặng vụn nhỏ, khai thác khó. Chất lượng khoáng chênh lệch lớn giữa các khu vực.
- Loại thứ hai: Nằm sát dưới tầng bùn xanh đen tại mỏ Bảo Sơn, trữ lượng ít.
Ngay từ thời Minh – Thanh, Chu Nê Hoàng Long Sơn đã khó đáp ứng nhu cầu, nên người ta chủ yếu sử dụng đất vàng đá và Chu Nê từ các mỏ lộ thiên ở Triệu Trang Sa Sơn, Hồng Vệ Hương Sơn làm nguyên liệu chính. Hoặc phối trộn đất đỏ Tử Sa chọn lọc với Chu Nê để bù đắp sự thiếu hụt nguyên liệu Chu Nê Hoàng Long Sơn.
Đặc tính khoáng liệu
Chu Nê có màu vàng với nhiều sắc độ, kết cấu đặc hoặc dạng cục, đất mịn và đồng đều. Khoáng chứa ít mảnh mica trắng li ti, dễ tan thành bùn sệt. Độ dẻo cao, thích hợp chế tác dáng mỏng tinh xảo. Hàm lượng sắt khác nhau tạo ra màu chu sa đỏ, chu sa tím hoặc hải đường đỏ sau khi nung.
Chu Nê là loại khoáng gây nhiều tranh luận và có tỷ lệ thành phẩm thấp. Bởi nguyên liệu Chu Nê có hạt nhỏ, cùng với độ co rút lớn khi sấy và nung, nên dễ phát sinh các vấn đề như nhăn bề mặt, biến dạng, nứt,… Tuy nhiên, không phải mọi ấm Chu Nê đều bị nhăn, từ các tác phẩm lịch sử có thể thấy, ấm bị nhăn chỉ chiếm một phần.
Nguyên nhân thành phẩm thấp của Chu Nê xuất phát từ nhiều yếu tố:
1. Yếu tố nguyên liệu:
Chu Nê từ Triệu Trang, Hồng Vệ… có độ co rút và biến dạng cao, thường chỉ thích hợp làm sản phẩm nhỏ. Một số Chu Nê Hoàng Long Sơn có tính chất nằm giữa đất đỏ Tử Sa và Chu Nê, hạt khoáng lớn hơn, độ co rút nhỏ hơn, ít nhăn, có thể làm sản phẩm lớn. Một số ấm Chu Nê cỡ lớn từ thời Minh – Thanh còn tồn tại đến nay thuộc loại này.
2. Yếu tố chế biến nguyên liệu:
Chu Nê tan được trong nước thành bùn sệt, nên khi chế biến, có nơi lọc bùn rồi phơi khô làm đất. Quá trình này loại bỏ hoặc hòa tan một phần hạt khoáng, khiến hàm lượng hạt giảm. Giống như việc dùng nguyên liệu Tử Nê đã lọc quá mịn để làm sản phẩm, điều này cũng dễ gây hiện tượng nhăn.
3. Yếu tố tạo hình:
Chu Nê luyện chín có đất nặng, thấm nước và thoát ẩm kém hơn các loại đất Tử Sa khác. Khi tạo hình, cần kiểm soát chặt chẽ độ ẩm, độ dày đồng đều của đất và kỹ thuật chế tác. Chỉ cần sơ suất nhỏ, vết gia công sẽ lộ rõ sau khi nung.
4. Yếu tố nung:
Do Chu Nê luyện chín có độ mịn cao, lỗ khí nhỏ, nước khó thoát, và trong quá trình kết tinh khi nung, các chất đồng chảy rất hoạt động, đặc biệt ở nhiệt độ giới hạn cao thì phản ứng rất mạnh. Vì vậy, khi nung, thời gian sấy và gia nhiệt ban đầu phải dài hơn đất đỏ Tử Sa, quá trình tăng và giảm nhiệt phải thật chậm, nếu nhanh sẽ gây nứt vỡ và hỏng hoàn toàn.
Nga Hoàng Chu Nê Hoàng Long Sơn

Nguồn gốc tại khu mỏ Bảo Sơn, nằm giữa tầng bùn xanh đen và vách đá vàng, chỉ xuất hiện hiếm hoi, trữ lượng khoáng rất ít. Khoáng có bề ngoài đồng đều, mịn, màu vàng nhạt, kết cấu bùn đặc thành khối, dễ vỡ, không cứng. Do màu bùn thuần khiết, mịn màng như lòng đỏ trứng ngỗng nên thường được gọi là “Nga Hoàng Chu Nê”.

- Đặc tính đất: Đất khá mịn, kết cấu bùn đặc thành khối, dễ vỡ, không cứng.
- Nhiệt độ nung: 1130 – 1140°C.
- Độ co rút: ~9%.
- Sau nung: Đất chuyển thành đỏ hơi tối, thân gốm thuần khiết, ấm áp. Bề mặt dạng da lê, cảm giác hạt khá rõ, hiệu ứng màu sắc tinh tế và phong phú.

Hoàng Long Sơn Chu Nê
Nằm xen giữa tầng bùn xanh đen và tầng đá vàng, trữ lượng khoáng tương đối ít. Bề ngoài khoáng có màu vàng hoặc vàng đỏ nhạt, kết cấu bùn đặc thành khối, dễ vỡ, không cứng. Trên khoáng có ít vệt màu xám nhạt do tiếp giáp với tầng bùn xanh đen.


- Đặc tính đất: Đất khá mịn, dễ vỡ, không cứng.
- Nhiệt độ nung: 1130 – 1140°C.
- Độ co rút: ~8%.
- Sau nung: Màu đất chuyển thành đỏ hơi tối, thân gốm thuần khiết, ấm áp. ề mặt dạng da lê, hạt khoáng ẩn hiện, hiệu ứng màu sắc tinh tế và phong phú.

Hoàng Long Sơn Chu Nê
Nằm ở phần dưới tầng đá Hoàng Thạch, hàm lượng khoáng vật tương đối ít. Quặng có bề ngoài màu đỏ vàng nhạt, kết cấu đất sét đặc khối, dễ vỡ, không cứng chắc, trên quặng có các đốm màu đỏ thẫm.


- Đặc tính đất: Đất khá mịn, độ dẻo tốt, khi tạo hình hơi dính, trong quá trình chế tác đất có tính nặng và hơi lẫn cát.
- Nhiệt độ nung: 1160 – 1180°C.
- Độ co rút: ~7%.
- Sau nung: Đất có màu đỏ thẫm nhẹ; ở nhiệt độ cao hơn sẽ chuyển sang màu đỏ thẫm đậm. Thân đất mịn màng, ấm áp, bề mặt có hạt li ti dạng vỏ lê lấp ló, tạo hiệu ứng màu sắc tinh tế và phong phú.

Hoàng Long Sơn Chu Nê
Xuất hiện ở lớp tiếp giáp phía dưới của tầng đá Hoàng Thạch cạn, hàm lượng khoáng vật tương đối ít. Quặng có bề ngoài màu vàng sẫm, kết cấu đất sét đặc khối, dễ vỡ, không cứng chắc. Bề mặt có màu đỏ thẫm giống lớp tiếp giáp Hoàng Thạch phía trên.


- Đặc tính đất: Đất khá mịn, độ dẻo tốt, khi tạo hình hơi dính, trong quá trình chế tác đất có tính hơi nặng.
- Nhiệt độ nung: 1140 – 1150°C.
- Độ co rút: ~8%.
- Sau nung: Đất có màu đỏ; ở nhiệt độ cao hơn chuyển sang đỏ thẫm. Thân đất mịn màng, bóng bẩy, hiệu ứng màu sắc khá tốt.

TSTN tổng hợp và dịch