/ / / Phân loại Phổ Nhĩ & Các vùng trà nổi tiếng (Phần 2)

Phân loại Phổ Nhĩ & Các vùng trà nổi tiếng (Phần 2)

Ba đại vùng trà Phổ Nhĩ (tt)

2. Lâm Thương (临沧)

Vùng trà Lâm Thương có sản lượng lớn nhất Vân Nam. Ba khu nổi tiếng nhất là Mãnh Khố, Bang Đông và Phượng Khánh. Hương vị mỗi vùng khác nhau, nhưng điểm chung là hương thơm tốt, độ ngọt cao và vị đắng nhẹ.

Mãnh Khố (勐库)

Mãnh Khố thuộc Song Giang, Lâm Thương. Nơi đây có giống trà dại lá lớn Vân Nam và giống trà Mãnh Khố chủng đặc hữu.

Trà cây cổ Mãnh Khố có khả năng giữ độ non rất tốt. Búp lá mập, chắc, một búp bốn lá vẫn mềm, khác với nhiều giống trà khác, chỉ một búp hai lá đã hóa già. Chất trà dày, hương mạnh, vị ngọt nổi rõ ở mặt lưỡi; hương đọng sâu ở vòm miệng. Độ kích thích trong miệng cao.

Băng Đảo (冰岛)

Băng Đảo còn được gọi là “Bỉnh Đảo”. Thôn Băng Đảo cách trấn Mãnh Khố khoảng 40 km. Giống trà Băng Đảo là thành phần chính của giống đại diệp chủng Mãnh Khố, và Băng Đảo cũng là một trong những nguồn gốc quan trọng của giống trà này. Cây trà đại diệp Mãnh Khố là trà thân gỗ, lá lớn, xanh đậm. Phiến lá dày, mềm, mặt sau nổi gân rõ. Trà mao (trà sơ chế) có vẻ hơi thô già, sợi trà đen, búp trắng.

Thôn hành chính Băng Đảo (tức Ủy ban thôn Băng Đảo) gồm năm thôn tự nhiên: Băng Đảo lão trại, Nam Bác, Bá Oai, Nọa Ngô, Địa Giới. Loại trà Băng Đảo được săn đón nhiều trên thị trường chủ yếu đến từ Băng Đảo lão trại – được xem là nguồn gốc chính thống và duy nhất của trà cổ thụ Băng Đảo.

Xem thêm: Ngũ Trại Băng Đảo – Bí mật hương vị từ 5 vùng trà cổ thụ nổi tiếng

Nước trà gần như không đắng chát. Cổ họng xuất hiện vị mát, rồi sinh tân mạnh dưới lưỡi. Khi uống, vị trà nhẹ nhưng lan từ cổ họng ngược lên miệng. Trà có độ dày cao, bền nước, hương đường rõ; nắp và đáy chén thơm mạnh, khi nguội có mùi đường phèn.

Tịch Quy (昔归)

Tích Quy thuộc thôn Bang Đông, núi Mang Lũ. Nước trà trong, tươi sạch; hương cao và lan tỏa. Vị hơi chát nhưng ngọt dịu. Hậu vị có hương thơm trầm, mát; trà khí mạnh nhưng nước mềm, đường nước tinh tế. Vị ngọt sâu, sinh tân mạnh; hương lưu rất lâu. Sản lượng thấp nên vô cùng quý hiếm.

Nà Hãn (那罕)

Nà Hãn thuộc hương Bang Đông (Lâm Thương), cách Tích Quy khoảng 7 km đường thẳng. Độ cao từ 1.350 – 1.700 m. Thuộc giống trà đại diệp Bang Đông với tuổi cây trung bình 200 – 300 năm. Về vị, hương và khí vận, trà Nà Hãn rất giống trà Tích Quy.

Trà Nà Hãn có hàm lượng amino acid rất cao nên trà khí mạnh và mang cảm giác “uy lực”. Hương trà ngọt, dày và phong phú; hồi ngọt – sinh tân mạnh. Nước trà mềm, mịn, đầy đặn và dày vị; tươi sáng và linh hoạt.

Mang Phế (忙肺)

Mang Phế thuộc huyện Vĩnh Đức, tỉnh Vân Nam. Vĩnh Đức là một trong những nơi khởi nguyên của cây trà thế giới. Tại đây đến nay vẫn còn cây Mộc lan Trung Hoa và diện tích lớn trà cổ thụ dạng hoang dại, dạng chuyển tiếp và dạng trồng. Về chất lượng, trà Mang Phế không thua bất kỳ danh sơn trà nào, chỉ kém về độ nổi tiếng. Trong nhiều năm, trà này rất được giới yêu Phổ Nhĩ tại Đài Loan ưa chuộng.

Nước trà sáng và trong. Vị đậm, độ kích thích cao. Hương thơm dày và bốc. Cảm giác trong miệng đầy đặn và hài hòa. Vị ngọt dịu, trơn, hơi chát nhẹ. Sinh tân rõ dưới lưỡi, hậu vị ngọt mượt và kéo dài.

Bá Noa (坝糯)

Núi cổ Mãnh Khố chia thành Đông – Tây theo ranh giới Băng Đảo. Bá Noa Đại Trại là đại diện của núi phía Đông, nơi có nhiều cây trà cổ nhất.

Hương vị mạnh mẽ, dương cương. Hương cao, lực mạnh, vị cứng; miệng đầy đặn, ngọt sâu. Trà khí mạnh và dài hơi. Chất lượng không thua trà chính sơn Di Vũ.

Mông Khẩu Đại Tuyết Sơn (勐库大雪山)

Quần thể trà cổ thụ hoang dã Đại Tuyết Sơn là quần thể trà lá lớn có mật độ cao nhất và nằm ở độ cao lớn nhất hiện biết trên thế giới. Khu vực sinh trưởng đặt ở trung bộ núi Đại Tuyết Sơn, huyện Song Giang, cao 2.200 – 2.750 m. Việc thu hái rất khó, sản lượng thấp nên trà đặc biệt quý.

Đây là trà hoang dã – bán hoang dã thuộc giống đại diệp Vân Nam. Lá dày và to, hương vị mang mùi hoang dã pha lan hương. Khí chất mạnh, thân dày, hơi đắng nhưng chuyển ngọt nhanh. Hương và vị trầm, mạnh, có sức công phá. Độ ngọt trên mặt lưỡi và hương ở giữa – sau vòm họng đều rõ và đầy.

Đổng Qua (懂过)

Núi trà Đổng Qua nằm ở sườn tây nửa núi của vùng trà Mễng Khổ, ở độ cao 1.750 mét, độ che phủ rừng cao, điều kiện tự nhiên ưu việt. Lá trà cổ thụ Đổng Qua hơi nhỏ, thuộc giống đại diệp hoang dã Vân Nam. Trà có hương cao vị đậm, vị đắng nền rõ, hậu ngọt nhanh và bền. Độ ngọt hài hòa kém Băng Đảo hay Bá Nọa nhưng khí vị mạnh hơn. Trong dòng đại diệp Mễng Khổ, phong cách của Đổng Qua rất riêng.

Bạch Ưng Sơn (白莺山)

Bạch Ưng Sơn thuộc trung bộ núi Đại Bính, trấn Mạn Loan, huyện Vân, Lâm Thương. Nơi đây có sự phong phú lớn về chủng loại cổ trà và mức độ biến dị. Khu vực được xem là kho tàng nguồn gen và là một “phòng thí nghiệm tự nhiên” cho nghiên cứu nguồn gốc – tiến hóa cây trà.

Trà khô có màu xanh đen bóng, hương thanh. Nước trà trong, màu cam óng; hương hoa quả dày; bề mặt óng dầu. Vị có tầng lớp; miệng mát, khí vị hài hòa. Nước trôi mượt, sinh tân tốt, hậu ngọt nhanh. Trà gần như không chát, vị đắng nhẹ.

Hương Trúc Khanh (香竹箐)

Cây trà cổ thụ số 1 Hương Trúc Khanh nằm tại thôn Cẩm Tú, trấn Tiểu Loan, huyện Phượng Khánh. Đây là cây trà cổ thụ thuộc loại trà canh tác lớn nhất và cổ nhất còn tồn tại trên thế giới, được chuyên gia ước tính hơn 3.200 năm tuổi.

Vĩnh Đức Đại Tuyết Sơn (永德大雪山)

Quần thể trà cổ hoang sinh ở Đại Tuyết Sơn thuộc huyện Vĩnh Đức, nằm trong khu bảo tồn quốc gia. Diện tích hơn 100.500 mẫu, cây cao trung bình 5 m, cây lớn nhất có vòng thân 215 cm, cao 25 m.

Phổ Nhĩ

Khu trà Tư Mao, tức khu vực thành phố Phổ Nhĩ ngày nay. Trong các vùng sản xuất trà hiện đại, nơi đây có hệ thống đồi trà được xây dựng tốt nhất, sản lượng lớn và hương vị thiên về đắng – chát. Nổi tiếng nhất trong vùng phải kể đến Cảnh Mại Sơn (huyện Lan Thương), cổ trà viên Thiên Gia Trại (huyện Trấn Nguyên), và Đại Bạch Trà Cảnh Cốc.

Cảnh Mại (景迈)

Cảnh Mại thuộc hương Huệ Dân, huyện Lan Thương, giáp hương Mễng Mãn của huyện Mễng Hải. Nơi đây còn giữ cổ trà viên nghìn năm – vạn mẫu với hai vùng nổi bật: Mãng Cảnh (người Bồ Lang) và Cảnh Mại (người Thái). Diện tích liền khoảnh lớn bậc nhất Vân Nam. Trà tập trung ở các bản: Cảnh Mại, Mãng Cảnh, Mãng Hồng, Ông Cư, Ông Oa…

Người Bồ Lang đã trồng và cư trú tại đây hơn 1.300 năm. Trên thân nhiều cây cổ còn mọc “càng cua” – lan Thạch hộc, tạo nên sản vật đặc trưng của vùng.

Trà Cảnh Mại có màu xanh ngọc, sợi ngắn, hương ngọt nhẹ. Đoạn giữa – sau vòm họng có vị ngọt thanh pha hương hoa. Chất trà trôi mượt, hơi mỏng. Hậu ngọt nhanh, bền. Trà xuân có hoa hương – lan hương rõ; trà thu nghiêng mật hương. So với Mễng Hải đắng mạnh, Cảnh Mại nghiêng chát nhẹ; vị chát tan nhanh.

Xem thêm: Hương vị “mỗi núi một vị” của trà Phổ Nhĩ hình thành như thế nào?

Cảnh Cốc (景谷)

Cảnh Cốc xưa gọi “Mãnh Ngọa”, nghĩa là “vùng có giếng muối”. Huyện nằm bên sườn tây nam Vô Lượng Sơn. Đây là nơi duy nhất phát hiện hóa thạch tổ tiên cây trà – loài Mộc Lan lá rộng, hơn 35,4 triệu năm tuổi. Toàn huyện hiện có 30.000 mẫu cổ trà trên 100 năm tuổi và 62.000 mẫu trà dại.

Khu phân bố chính gồm Hoàng Thảo Bá, Thông Đạt (trấn Chính Hưng), Mạn Long – Tô Gia Sơn (Ích Trí), Thuận Nam – Quang Sơn (Phượng Sơn), Văn Sơn – Văn Đông (Cảnh Cốc). Trong số này, cổ trà viên “Tiểu Cảnh Cốc” rộng nhất và chất lượng cao nhất. Khổ Trúc Sơn (Kim Trúc Sơn Thiên Gia Trại) và Văn Sơn Đỉnh cũng rất nổi bật.

Trà Cảnh Cốc có búp, lá mập, dày, nhiều lông trắng. Nước trà vàng xanh sáng, trong; hương thanh bền; sinh tân rõ; hậu ngọt dài.

Khốn Lộc Sơn (困鹿山)

Khốn Lộc Sơn nằm ở hương Phụng Dương, huyện Ninh Nhĩ. Đây là cổ trà viên từng sản xuất cống trà cho triều Thanh nên gọi “Hoàng gia cổ trà viên Khốn Lộc Sơn”. Quần thể trải dài giữa Phụng Dương và Ba Biên, tổng 10.000 mẫu. Riêng thôn Khoan Hoằng có 1.939 mẫu rừng trà cổ bán hoang dã xen rừng lá rộng, bảo tồn nguyên vẹn nhất Ninh Nhĩ.

Đặc điểm: sợi trà đẹp, mao trắng; nước vàng xanh; hương bền và có khí vị cổ mộc; vị đắng nhẹ, tan nhanh thành ngọt; hậu ngọt lâu; chát nhẹ dễ tan.

Thiên Gia Trại (千家寨)

Núi trà Thiên Gia Trại thuộc thôn Hòa Bình, hương Cửu Giáp, huyện Trấn Nguyên, dãy Ai Lao Sơn. Quần thể trà hoang dã hơn vạn mẫu, trong đó 4.200 mẫu liền khoảnh. “Thiên Gia Trại số 1” – cây trà 2.700 năm tuổi, là cây trà hoang dã lớn nhất từng phát hiện.

Hương vị đoạn giữa – sau vòm họng ngọt thanh. Mặt lưỡi hơi đắng, chất trà nhẹ và loãng.

Cảnh Đông (景东)

Trà mọc ở các núi quanh thành Yên Sinh. Thu hái rải rác, cách chế biến thô sơ. Người man Mông nấu với gừng, tiêu, quế. Đây là ghi chép sớm và xác thực nhất về trà Phổ Nhĩ. Thành Yên Sinh của Nam Chiếu chính là Cảnh Đông ngày nay. Phạm vi phủ Yên Sinh tương ứng vùng trà Phổ Nhĩ, Bản Nha, Lâm Thương hiện nay.

Cảnh Đông là cái nôi nguồn gốc cây trà. Vùng này nằm ở vĩ độ cao, khí hậu lạnh, mưa ít. Trà có nước ngọt mềm, hương hơi trầm. Nước vàng xanh; vị đắng nhẹ, chát yếu; hậu ngọt tốt. Lá trà vàng xanh đều, mang khí vị núi rừng.

Bàng Vệ (邦崴)

Bàng Vệ nằm tại thôn Bàng Vệ, hương Phú Đông, huyện Lan Thương. Trà thuộc giống đại diệp Vân Nam, hoang dã – bán hoang dã. Việc phát hiện cây trà cổ bán hoang dã hơn 1.000 năm tuổi tại đây đã làm thay đổi học thuyết về nguồn gốc cây trà. Trà có sợi không dài, lá dày, nội chất mạnh. Vị tập trung, hơi đắng ở mặt lưỡi và giữa – sau vòm họng. Đôi khi có hương ngọt men nhẹ.

Giang Thành (江城)

Giang Thành nằm ở vị trí “giữa ba dòng sông”, giáp Việt Nam và Lào. Lịch sử trà trải qua nhiều giai đoạn hưng – suy và phát triển lại. Trà viên hiện đại đạt 128.000 mẫu. Trà hoang dã – bán hoang dã lá lớn có hương thanh, ngọt mềm, vị nhẹ. Nhiều trà hoang dã Dị Vũ ngày nay thường được pha lẫn trà Giang Thành hoặc Mễng Tông.

Phật Điện Sơn (佛殿山)

Phật Điện Sơn thuộc huyện Tây Mạnh, với năm quần thể cổ trà tổng diện tích 28.500 mẫu, trong đó quần thể lớn nhất đạt 9.000 mẫu. Phật Điện Sơn sở hữu quần thể trà cổ sinh học hoang dã 19,5 km², từ lâu được xem là một trong tám ngọn núi trà nổi tiếng của Phổ Nhĩ Phủ. Trà nơi đây có đặc điểm hậu ngọt lâu, bền khi pha nhiều lần.

Doanh Bàn Sơn (营盘山)

Doanh Phiên Sơn nằm cách đông nam trung tâm thành phố Tư Mao hơn 10 km. Vùng trà 2.400 ha trà hữu cơ, đã được xây dựng thành “Vườn triển lãm trà Phổ Nhĩ Trung Hoa” phục vụ du lịch. Đây là vùng trà sinh thái lớn nhất Vân Nam, tổng diện tích lên tới 20.000 mẫu.

Bản Sơn (板山)

Bản Sơn nằm trong dải rừng nguyên sinh thôn Mãng Tiên, huyện Ninh Nhĩ. Đây là một trong những vùng sản trà cống sớm nhất thời nhà Thanh. Tại các khu Kim Trúc Lâm Khánh, Trà Sơn Khánh và Bạch Thảo Địa, người ta tìm thấy nhiều quần thể trà trồng có chủ định. Trà ở đây thuộc loại cây trà nhỏ, đặc điểm: vị đắng chát dễ tan, sinh tân nhanh.

Dương Tháp (秧塔)

Dương Tháp thuộc huyện Cảnh Cốc. Lịch sử trồng trà bắt đầu từ năm thứ 20 đời Đạo Quang. Trà được chế thành Bạch Long Tu cống trà dâng triều đình. Người xưa còn dùng phương pháp “xay hai lần” để giảm đắng chát. Đây là một trong tám loại trà nổi tiếng Vân Nam.

Trà Đại Bạch Dương Tháp thuộc đại diệp Vân Nam, chồi và lá phủ đầy lông tơ; trà thành phẩm mập, nặng, lộ trắng mao, sợi trắng, hương thanh nhẹ tựa quả ô liu, hậu ngọt. Nước trà sáng, vị đậm đà, hậu ngọt kéo dài, chịu pha nhiều lần tốt.

Khổ Trúc Sơn (苦竹山)

Khổ Trúc Sơn thuộc huyện Cảnh Cốc, là cái nôi cổ trà Phổ Nhĩ. Cây trà cổ có đường kính như miệng bát, tuổi hơn 200 năm. Trà thuộc đại diệp Vân Nam, hương cao, nước ngọt mềm; hậu ngọt dài; vị êm; gần với phong cách Dị Vũ.

Mã Đằng Trà Sơn (马邓茶山)

Nằm tại thôn Mã Đằng, hương Giả Đông, huyện Trấn Nguyên, sườn tây Ai Lao Sơn, cao 1.780 m. Người dân trồng trà hơn 800 năm. Hiện có khoảng 500 mẫu cổ trà trồng nhân tạo, toàn bộ là cây đại thụ. Trà Mã Đằng truyền thống được chế thành trà xanh phơi khô và từng danh tiếng.

Trà Mã Đằng thuộc đại diệp Vân Nam, chất trà mượt, hương độc đáo, có vị ngọt tự nhiên của trà hoang. Nước trà vào miệng ngọt thanh, hương rõ ràng ở giữa – sau vòm họng; mặt lưỡi và hai bên má có vị ngọt hậu; hậu vị lâu dài, dịu và mềm.

Kết luận

Bề mặt nhìn vào, các sơn đầu Phổ Nhĩ dường như ranh giới rõ ràng; nhưng thực tế, chúng lại gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên một giang hồ Phổ Nhĩ rộng lớn và sinh động. Dù cùng thuộc một vùng, trà của từng sơn đầu vẫn mang tính cách riêng biệt, bởi địa hình và khí hậu Vân Nam có sự khác biệt rõ rệt giữa các khu vực, đồng thời biến đổi mạnh theo độ cao.

Muốn hiểu và thưởng thức đúng trà Phổ Nhĩ, trước hết phải nắm được bản đồ phân bố các sơn đầu, lần theo dấu vết từng nơi, để mỗi chén trà đều có đích đến rõ ràng.

TSTN tổng hợp và dịch