/ / / Vũ Di Sơn – Thôn Đồng Mộc: Cội nguồn của hồng trà thế giới

Vũ Di Sơn – Thôn Đồng Mộc: Cội nguồn của hồng trà thế giới

Thôn Đồng Mộc nằm trên dãy Vũ Di Sơn thuộc tỉnh Phúc Kiến. Nơi đây từ lâu nổi tiếng trong và ngoài nước như cái nôi của hồng trà. Người ta thường nói: “Hồng trà thế giới bắt nguồn từ Trung Quốc; hồng trà Trung Quốc có gốc tại Phúc Kiến; và tổ của hồng trà chính là Đồng Mộc, Vũ Di.”

Trong bốn dòng hồng trà danh tiếng thế giới, Kỳ Môn của Trung Quốc dùng giống trà bản địa An Huy, nhưng kỹ nghệ chế biến lại do các nghệ nhân Đồng Mộc truyền dạy. Các dòng Tích Lan, Darjeeling và Assam của Ấn Độ cũng mang dấu ấn Đồng Mộc. Chúng xuất phát từ những hạt giống và cây con do nhà thực vật học Scotland Robert Fortune mang đi vào thập niên 1840, cùng với các nghệ nhân trà thời đó.

Đồng Mộc và vùng trà Chính Sơn Tiểu Chủng

Đường vào Vũ Di Sơn mờ sương, mưa bụi lơ lửng, cảnh núi rừng như chốn bồng lai. Suối từ vách đá chảy xuống rửa bóng lớp đá cổ xưa. Hai bên đường, cây cối um tùm và giữ trọn vẻ nguyên sơ.

Đồng Mộc có 12 đội (tương đương các tiểu thôn): Giang Đôn, Bì Khảm, Miếu Loan, Tam Cảng, … Cả dãy Vũ Di đều trồng trà, nhưng chỉ trà từ khu vực Giang Đôn – Bì Khảm – Miếu Loan – Đồng Mộc Quan mới được gọi là Chính Sơn Tiểu Chủng. Các khu vực khác chỉ là Ngoại Sơn Tiểu Chủng hoặc đơn thuần là “Tiểu Chủng”. “Chính Sơn” nghĩa là chính gốc, chính tông; “Tiểu Chủng” chỉ giống trà lá nhỏ – cũng gọi là “Vũ Di kỳ chủng”.

Quang cảnh tại Vũ Di

Xem thêm: Truyền thuyết về hồng trà và bề dày văn hóa của trà Vũ Di

Đồng Mộc nằm gần ranh giới giữa Nam Bình (Phúc Kiến) và Thượng Nhiêu (Giang Tây). Tương truyền nơi đây từng có nhiều cây dầu đồng mọc dại, nên thôn và cửa ải đều mang tên “Đồng Mộc Quan”. Ngày nay, cửa ải vẫn là điểm phân giới hai tỉnh nhưng không còn ý nghĩa quân sự. Chỉ cách một ngọn núi, đời sống kinh tế – văn hóa hai bên đã rất khác nhau.

Mỗi mùa xuân, người dân Giang Tây sang Vũ Di để hái trà. Một người có thể hái 20 – 30 cân trà tươi mỗi ngày. Bốn cân trà tươi mới làm được một cân hồng trà.

Rừng trà cổ thụ trên mây

Từ độ cao 1100m trở xuống, núi đồi nối tiếp và phủ kín bởi những rặng trà xanh. Trà ở Đồng Mộc không giống trà ở các nông trường dưới xuôi, vốn được trồng theo hàng lối. Tại đây, đa số là trà cổ thụ bán hoang dã, có cây gần trăm tuổi. Chúng mọc xen giữa rừng tre và cây cổ, cao thấp khác nhau. Vì vậy, nơi này không có “trà viên”, mà chỉ có “trà sơn”. Mỗi ngọn núi là một vùng trà riêng.

Đồng Mộc nằm ở vĩ độ 27° Bắc, cao 600 – 2000m, được xem là vành đai khí hậu vàng cho cây trà, với nắng, mưa và khí hậu đặc hữu của Vũ Di Sơn: “cao sơn vân vụ xuất hảo trà”.

Núi đồi nối tiếp và phủ kín bởi những rặng trà xanh

Nơi hồng trà ra đời: từ Chính Sơn Tiểu Chủng đến Kim Quân Mi

Tại Miếu Loan, xưởng Chính Sơn Đường đặt hai tảng đá lớn khắc “Phát nguyên địa của Chính Sơn Tiểu Chủng” và “Phát nguyên địa của Kim Quân Mi”. Theo bảo tàng, tổ tiên họ Giang đã định cư tại Đồng Mộc Quan và đời đời làm trà.

Tương truyền vào cuối Minh đầu Thanh, khi trà đang làm dở, một đội quân ghé nghỉ và ngủ lên đống trà xanh. Trà bị ép và nóng, tự nhiên lên men đỏ. Tổ tiên họ Giang đem sao bằng gỗ tùng; khói tùng ngấm vào lá trà khiến màu đen bóng, hương vị lạ đến mức dân địa phương không uống nổi. Ông phải gánh trà đi bán rẻ ở chợ Tinh Thôn nhưng năm sau người ta trả giá gấp nhiều lần đặt mua. Và thế là Chính Sơn Tiểu Chủng – hồng trà đầu tiên của thế giới ra đời, ghi chép lại trong Trung Quốc Trà Kinh.

Xem thêm: Chính Sơn Tiểu Chủng và Kim Tuấn Mi – Hai “anh em” làm nên linh hồn của Hồng trà Trung Hoa

Thôn Đồng Mộc là nơi phát minh ra loại hồng trà đầu tiên trên thế giới

Công nghệ về sau có cải tiến nhưng vẫn giữ tinh thần truyền thống. Năm 2005, đời thứ 24 của họ Giang – Giang Nguyên Huân, thử nghiệm chỉ hái một búp non để làm trà. Ông nhiều lần điều chỉnh và sáng tạo ra Kim Quân Mi. Đến năm 2007, Kim Quân Mi ra mắt và trở thành “vua hồng trà cao cấp”. Một cân trà cần tới 80.000 búp. Chi phí sản xuất tại Đồng Mộc đã vượt 3000 tệ mỗi cân.

Học làm trà: từ công nghệ mới đến truyền thống

Công nghệ mới gồm các bước:

  • Trà tươi được dàn trên máy làm héo ở nhiệt độ 23°C trong 5 giờ
  • Trà héo được đưa vào máy vò thành sợi chặt
  • Cho vào giỏ tre, đậy kín chờ lên men tự nhiên
  • Sau đó đưa vào lò sấy ở 80°C trong 6 giờ
  • Trà làm xong được niêm kín 1 năm để hương vị tròn đầy (hồng trà uống ngon nhất là trà để qua năm)

Công nghệ truyền thống khác ở hai khâu quan trọng: làm héo và sấy. Hai bước này phải thực hiện trong “Thanh Lâu”, tòa nhà ba tầng hun trà bằng khói tùng:

  • Tầng 1: sấy trà đã lên men
  • Tầng 2 – 3: làm héo trà tươi

Khói từ gỗ tùng trên bếp lò đưa vào làm trà ám khói, tạo nên màu đen đặc trưng và mùi tùng khói mạnh hơn nhiều so với công nghệ mới.

Những ngôi nhà gỗ đơn sơ dùng để hong sấy trà Vũ Di

Kết luận

Đồng Mộc có điều kiện tự nhiên đặc hữu, lịch sử lâu đời và kỹ nghệ chế biến được truyền qua nhiều thế hệ. Các yếu tố này tạo nên một hệ sinh thái hồng trà nguyên bản và có ảnh hưởng lớn. Giống trà lá nhỏ của Vũ Di, phương pháp hun khói tùng và các quy trình chế biến truyền thống đã góp phần định hình hồng trà thế giới.

Sự xuất hiện của Chính Sơn Tiểu Chủng và Kim Quân Mi là minh chứng rõ ràng. Vì vậy, Đồng Mộc không chỉ là vùng trồng trà, mà còn là trung tâm văn hóa và kỹ thuật. Nơi đây hội tụ kiến thức, môi trường và lịch sử để tạo nên một dòng trà có giá trị toàn cầu.

TSTN tổng hợp và dịch