/ / / Nguồn gốc ấm Tĩnh Lan

Nguồn gốc ấm Tĩnh Lan

Xuất phát tên gọi Tĩnh Lan

Tên gọi “井栏壶” – ấm Tĩnh Lan xuất phát từ hình tượng “井栏” – tức lan can của giếng. Trong văn hóa truyền thống, “井栏” xuất hiện nhiều, chẳng hạn trong Thái Cực quyền Trần thức lộ hai, chiêu thức thứ bốn mươi mốt gọi là “Hồi đầu Tĩnh Lan trực nhập”,…

Giếng nước – Tĩnh Lan

Trong đời sống, Tĩnh Lan chính là hàng rào quanh miệng giếng, còn gọi là giếng sàn hay giếng cạn. Người xưa đào giếng thường dựng lan can, có nơi còn làm cả nắp giếng, mái giếng, đình giếng. Những thiết kế này vừa bảo vệ giếng, vừa làm đẹp cảnh quan.

Công năng của lan can giếng

Lan can giếng khiến miệng giếng cao hơn mặt đất và có ít nhất ba công dụng thực tế:

  1. Ngăn bụi cát, nước bẩn tràn vào giếng, giữ vệ sinh; khi đậy nắp giếng còn tránh trẻ nhỏ nghịch ngợm hay kẻ xấu bỏ độc vào giếng.
  2. Ngăn người bị rơi xuống giếng do trời tối, say rượu, nhất là vào mùa đông khi nước đóng băng quanh giếng.
  3. Tránh nước giếng tràn ra ngoài. Trong quan niệm cổ, hiện tượng “giếng tràn” bị xem là điềm dữ.
Miệng giếng được xây cao để tối ưu công dụng

Câu chuyện về ấm Tĩnh Lan

Dưới thời Gia Khánh triều Thanh vào một ngày nọ, người bạn tri kỷ trong nghề làm ấm là Dương Bành Niên đến thăm tri huyện Lịch Dương (Giang Tô) – Trần Mạn Sinh. Hai người bày tiệc trong sân, lấy ấm tử sa làm đề tài bàn luận.

Bành Niên hỏi: Gần đây có sáng ý nào mới không?
Mạn Sinh lắc đầu: Công vụ bận rộn, chưa kịp nghĩ ngợi.
Bành Niên cười: Đừng nôn nóng, vạn vật đều có thể thành ấm!
Mạn Sinh đáp: Chỉ mong đạt đến cái tinh vi.

Cả hai uống rượu rất vui. Phía nam sân có một chiếc giếng sâu, đúng lúc một a hoàn ra múc nước. Lan giếng cao, nước giếng sâu, a hoàn cúi lưng cong như con tôm, dáng uyển chuyển. Hai người nhìn nhau bật cười. Mạn Sinh chăm chú nhìn chiếc lan giếng và bóng dáng a hoàn, trong tâm trí dần hiện ra hình ấm: lan giếng hóa thân thành thân ấm, dáng người cúi thành quai ấm.

Dáng ấm Tĩnh Lan

Bành Niên hiểu ngay ý bạn, liền bảo gia nhân mang bút mực, vẽ ngay trên bàn đá. Vẽ mấy lượt rồi thành hình một chiếc ấm.

Bành Niên nói: Gọi là “ấm Tĩnh Thủy” (ấm múc nước) được chăng?
Mạn Sinh lắc đầu: Đây là tạo hóa ban tặng, chỉ có thể gọi là “ấm Tĩnh Lan”.
Hai người nhìn nhau cười lớn.

Sự phát triển của ấm Tĩnh Lan

Từ đó, ấm Tĩnh Lan đã trở thành một trong những kiểu dáng truyền thống của ấm tử sa. Ấm Tĩnh Lan có nhiều biến thể: Tĩnh Lan cao, Tĩnh Lan thấp, Tĩnh Lan vuông. Sự khác biệt chỉ nằm ở chi tiết như núm, vòi, quai, nắp… nhưng hình thức tổng thể vẫn thống nhất.

Biến thể của dáng ấm Tĩnh Lan
Biến thể của dáng ấm Tĩnh Lan

Ấm lấy hình tượng lan giếng bằng đá làm gốc, kết hợp nét đẹp thư khắc trên lan giếng để thành chữ khắc trên ấm. Dáng vẻ mộc mạc, tao nhã, hàm chứa ý vị cổ xưa. Các nghệ nhân tử sa chế tác theo đường nét lan giếng nên ấm có sự hài hòa giữa vuông và tròn, giản dị mà tinh mỹ, dáng vẻ trôi chảy, khí độ khoáng đạt, được người yêu trà hết sức ưa chuộng.

Ý nghĩa của ấm Tĩnh Lan

Giếng sâu tượng trưng cho kho tàng tri thức, học vấn như nguồn nước giếng, lấy mãi không cạn. Ấm Tĩnh Lan nhắc nhở đời người: tri thức cũng như nước, cần liên tục gạn lấy mới có thể tu dưỡng bản thân, an dưỡng tuổi già. Dáng ấm đơn giản, cao khiết, cổ nhã, được xem là một trong ba dáng ấm tử sa kinh điển truyền thế.

Dáng ấm giản dị nhưng cao khiết

Cũng nhờ hình thức giản lược, ấm Tĩnh Lan có không gian rộng để trang trí: thơ, thư pháp, hội họa, ấn chương đều có thể điểm xuyết làm đẹp. Chính vì vậy, đây là dáng ấm được giới sưu tầm đặc biệt coi trọng.

TSTN tổng hợp và dịch